Người Do Thái (tiếng Hebrew: יְהוּדִים ISO 259-3 Yehudim, phát âm [jehuˈdim]) là một sắc tộc-tôn giáo có nguồn gốc từ người Israel trong lịch sử. Hiện nay, cuộc sống hiện đại người Do Thái sống rải rác tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới nhưng chỉ riêng Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, họ đa phần là người Do Thái và Đạo Do Thái.

Theo số liệu cập nhật năm 2013 có khoảng 13,8 triệu người Do Thái trên thế giới( khoảng 0.19% dân số thế giới). Vào khoảng giứa thế kỷ 19, ¼ các nhà khoa học trên thế giới là người Do Thái. Vào năm 1978, hơn một nửa giải Nobel rơi vào tay người Do thái. Điều này cho chúng ta biết rằng có đến 50% đóng góp sự tiến bộ cho loài người do 0,19% dân số thế giới đảm nhiệm hay nói cách khác 50% này là do người Do Thái tạo ra cho chúng ta. Chúng ta có thể nghe đến những tên tuổi lớn của thế kỷ 20, những bộ óc thế kỷ như Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch…tất cả họ đều là người Do Thái.
Người Do Thái (tiếng Hebrew: יְהוּדִים ISO 259-3 Yehudim, phát âm [jehuˈdim]) là một sắc tộc-tôn giáo có nguồn gốc từ người Israel trong lịch sử vùng Cận Đông cổ đại. Họ đã chịu một lịch sử lâu dài bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau, dân số và phân bố dân số của họ thay đổi qua nhiều thế kỉ. Ngày nay, đa số các nguồn tin cậy đều đặt dân số Do Thái trong khoảng từ 12 tới 14 triệu. Trong năm 2007 có 13,2 triệu người Do Thái trên toàn thế giới; trong đó 5,4 triệu (40,9%) ở Israel; 5,3 triệu (40,2%) ở Hoa Kỳ và số còn lại rải rác khắp thế giới. thông tin này được Jewish Agency đưa ra.
Vào khoảng 1800 TCN với những câu chuyện ghi lại trong Kinh Thánh về sự ra đời của đạo Do Thái. Merneptah Stele, có niên đại vào khoảng 1200 TCN, là một trong những tài liệu khảo cổ xưa nhất của người Do Thái sinh sống trong vùng đất Israel, tôn giáo độc thần đầu tiên được phát triển đó là Do Thái giáo,. Theo những câu chuyện chép lại trong Kinh Thánh, dưới những quan tòa từ Othniel cho tới Samson người Do Thái đã hưởng thụ những giai đoạn tự chủ đầu tiên, sau đó vào khoảng năm 1000 TCN, vua David thiết lập Jerusalem như là kinh đô của Vương quốc Israel và Judah Thống nhất và từ đó cai quản Mười hai chi tộc Israel.

Con của vua David là vua Solomon trở thành vua của Israel Vào năm 970 TCN. Trong vòng mười năm, Solomon bắt đầu xây dựng Đền thờ thiêng liêng được biết đến như là Đền thờ Đầu tiên. Khi Solomon chết (khoảng 930 TCN), mười chi tộc phía bắc tách ra để thành lập Vương quốc Israel. Vào năm 722 TCN người xứ Assyria chinh phục vương quốc Israel và làm người Israel phải sống lưu vong, bắt đầu một cộng đồng hải ngoại. Vào thời đại di chuyển và du hành khá hạn chế, người Do Thái trở thành những người dân tỵ nạn đầu tiên và dễ bị chú ý nhất. Ngày xưa cũng như bây giờ, dân di cư được đối xử với sự nghi ngờ.
Cho đến cuối thế kỉ 18, từ Do Thái và theo đạo Do Thái được xem là đồng nghĩa trong thực tế, và đạo Do Thái là yếu tố chính thống nhất người Do Thái mặc dù mức độ theo đạo đó có khác nhau. Trong thời kỳ của chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, một vị vua nổi tiếng của Vương quốc Phổ là Friedrich II Đại Đế đã tiến hành khoan dung tôn giáo và gia tăng quyền lợi của cộng đồng Do Thái. Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các trường học, giáo đường và nhà nguyện của họ. Theo sau Thời đại Khai sáng và thời đại Haskalah tương ứng theo truyền thống Do Thái, một sự thay đổi dần dần đã diễn ra mà qua đó nhiều người Do Thái cho mình là thành viên của nước Do Thái là khái niệm khác biệt với theo đạo Do Thái.
Từ “Yehudi” (số nhiều Yehudim) trong tiếng Hebrew nguyên thủy được dùng để chỉ chi tộc Judah. Sau này, khi phần phía bắc của Vương quốc Israel Thống nhất tách khỏi phần phía nam, thì phần phía nam của Vương quốc bắt đầu đổi tên theo của chi tộc lớn nhất của họ, tức là thành Vương quốc Judah. Từ này ban đầu đề cập đến cư dân của vương quốc phương nam, mặc dù từ B’nei Yisrael (Israelite, người Israel) vẫn được sử dụng cho cả hai nhóm. Sau khi người Assyria chinh phục vương quốc phía bắc để lại mỗi vương quốc phía nam còn tồn tại, từ Yehudim dần dần được dùng để chỉ toàn thể những người theo Do Thái giáo, hơn là chỉ những người trong chi tộc hay là trong Vương quốc Judah. Từ Jew trong tiếng Anh được bắt nguồn từ Yehudi (xem #Thuật ngữ). Sử dụng đầu tiên trong Kinh thánh Tanakh để chỉ đến toàn bộ dân tộc Do Thái được tìm thấy trong Sách Esther.
Vậy tại sao các thế hệ người Do Thái lại có được trí tuệ như vậy (chỉ số IQ trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới)? Trong cuốn “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu” có đưa ra lời giải thích cụ thể cho vấn đề này.

Vai trò của bà mẹ Do Thái
Từ khi mang thai những bà mẹ Do Thái đã có những chế độ ăn uống, sinh hoạt riêng để giúp con mình thông minh hơn. Họ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và…làm toán cho đến khi sinh con ra. Họ cho rằng làm vậy sẽ giúp đứa trẻ thông minh hơn. Trong lúc mang thai họ thường ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá, ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá, họ tin rằng tất cả những thứ này sẽ giúp đứa trẻ trở nên thông thái hơn.
Từ lúc những đứa bé còn phải nằm ngửa, các bà mẹ đã tạo cho trẻ nhỏ thói quen thích sách bằng cách nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, đứa trẻ sẽ nhận thức sách là một thứ gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn.
Năm 1950, Ủy ban công nghiệp thành phố New York(Mỹ) đã có cuộc điều tra nguồn nhân lực và nhận ra rằng phụ nữ ý và phụ nữ Do Thái có sự khác biệt rất lớn. Những người phụ nữ ý thường phải đi làm, đôi khi họ còn bắt con nghỉ học để phụ giúp cha mẹ. Điều này hoàn toàn ngược lại với phụ nữ Do Thái, Cho dù kinh tế khó khăn đến đâu họ vẫn sẽ ở nhà nuôi dạy con cái, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng – người bạn ngày đi làm nhưng tối về vẫn có nghĩa vụ học và dạy học cho con.

Họ thường chăm sóc và động viên các con của mình và chính vì thế mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập, tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác. Năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York thống kê có 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao lên tới 170 điểm, trong đó 24 là học sinh Do Thái. Ngoài ra, những người này còn quan niệm điểm không quan trọng học bằng cách nào, mà đã học thì phải hỏi. Vì vậy, học sinh Do Thái được khuyến khích đặt thật nhiều câu hỏi cho giáo viên.
Cũng theo các nhà khoa học Do Thái, sự rung động của âm nhạc sẽ kích thích bộ não và đó là lý do vì sao có rất nhiều thiên tài người Do Thái…
Hệ thống giáo dục phổ thông
Những môn học được ưu tiên cho học sinh Do Tái từ lớp 1 đến lớp 6 bao gồm Kinh Doanh, những đứa trẻ đều được tham gia các môn thể thao như bắn cung, bắn súng, chạy bộ vì họ tin rằng bắn cung và bắn súng sẽ rèn luyện cho bộ não trở nên tập trung vào các quyết định và sự chính xác của chúng.
Khi lên trung học, học sinh sẽ giảm dần việc học khoa học, thay vào đó học sinh sẽ được học cách tạo ra sản phẩm. Dù cho một số dự án hay bài tập có vẻ nực cười và vô dụng nhưng tất cả đều đòi hỏi sự tập trung nghiêm túc, đặc biệt là các môn thuộc về vũ khí, ý học, kỹ sư, ý tưởng sẽ được giới thiệu lên các viện khoa học hoặc các trường đại học.

Kinh doanh cũng được người Do Thái chú trọng ưu tiên trong việc giảng dạy. Năm cuối ở trường đại học, sinh viên sẽ được giao một dự án và thực hành. Khoảng 10 người/nhóm, họ sẽ hoàn thành dự án này nếu tạo ra lợi nhuận là 1 triệu USD. Nghe thì có vẻ ngạc nhiên nhưng đây lại là thực tế và cũng là lý dô vì sao một nửa hoạt động kinh doanh trên thế giới đều là của người Do Thái
Xã hội Do Thái từ rất sớm đã coi trọng việc xóa mù chữ, sách và người có học thức
Người Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới thực hiện việc xóa mù chữ. Từ năm 64 đầu Công nguyên, tất cả các nhà thờ đều quy định tất cả nam giới phải biết đợc viết và tính toán; đến thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc tất cả những người đàn ông đó phải có nghĩa vụ dạu học cho con trai mình đọc, viết, tính toán. Điều này chứng minh rằng họ phổ cập giáo dục cho Nam giới trước các dân tộc khác hàng ngàn năm

Tại Israel, Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết. họ là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu nhân loại về số đầu sách xuất bản theo đầu dân.
Những thông tin trên chứng minh rằng, từ ngàn xưa người Do Thái đã xem tri thức và loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải. họ hiểu rằng kiến thức là thứ không thể cướp đoạt được và nó cũng chính là nhân tố quan trọng giúp cho người Do Thái đạt được trí thông minh vượt bậc so với phần còn lại của thế giới.
Tạp Chí Doanh Nhân